MỪNG SINH
NHẬT ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP.
25 tháng 8 năm 2013,
Mừng sinh nhật thứ 102 Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Lửa Truyền Thống xin gửi tới
các bạn những thông tin về vị tướng kiệt xuất “binh thư văn sử thảy tinh
thông” này…
Thời thơ ấu
Gia đình cụ Nghiêm
thuộc diện nghèo trong làng, quanh năm phải vay nợ nặng lãi của các nhà giàu
như nhà Khóa Uy, một Hoa
kiều giàu
có ở làng Tuy Lộc kề bên. Võ Nguyên Giáp đã có lần theo mẹ chèo thuyền chở thóc
đi trả nợ. Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng những câu chuyện đêm đêm mẹ kể cho cậu nghe
về tướng quân Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm
Nghi hạ
chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu và dân chúng đứng lên chống Pháp bảo vệ non
sông, còn cha nói về phong trào đánh Pháp qua bài vè “Thất thủ kinh đô” đầy cảm động, đã gieo vào lòng cậu bé
những ấn tượng không bao giờ phai mờ, góp phần nuôi dưỡng ý chí cho sự nghiệp
cách mạng sau này.
Cha ông là một nhà
Nho nên dạy dỗ con cái rất nghiêm cẩn trong sinh hoạt gia đình và học hành, giữ
gìn nề nếp gia phong của đạo Khổng. Ông khuyên dạy con: "Chữ Nho là chữ của Thánh hiền, là
nho sinh, các con không được nghịch ngợm, dẫm đạp lên sách vở chữ Nho".
Ông dạy đám học trò cùng hai con ông: Tạm thiện tự, Ngũ thiên tự và cả Ấu học
tân thư. Năm tháng học chữ Nho không nhiều nhưng những đạo lý học được trong
các sách của Thánh hiền Nho gia, đặc biệt là Ấu học tân thư, đã có ảnh hưởng
sâu sắc trong cả cuộc đời ông.
Học xong lớp 3 cậu
phải xuống thị xã Đồng Hới học tiếp, Đồng Hới thuộc tỉnh lỵ Quảng Bình, cách
làng An Xá của cậu trên 20 cây số, nằm bên bờ Nhật Lệ trong xanh lung linh soi
bóng Lũy thầy, với thành cổ bao quanh từ thời Gia Long năm thứ 10 (1812) và
được xây lại bằng gạch năm Minh Mạng thứ năm (1824).
Những năm học ở thị
xã Đồng Hới, cậu Giáp ở trọ nhà người quen của cụ Nghiêm. Cậu được gia chủ quý
mến coi như con cháu trong nhà, không lấy tiền trọ, cậu được học với nhà sư
phạm có tiếng, thầy giáo Đào
Duy Anh. Hai năm học ở tiểu học Đồng Hới, hàng tháng cậu luôn
đứng đầu lớp. Tại kỳ thi tốt nghiệp bậc sơ học, cậu đỗ đầu toàn tỉnh. Về làng
cậu được dân làng nể trọng, gia đình rất tự hào về cậu.
1925, Võ
Nguyên Giáp rời trường Tiểu học Đồng Hới ở quê nhà Quảng
Bình để
vào Huế ôn thi vào trường Quốc
học Huế (ông
đỗ thứ hai sau Nguyễn Thúc Hào).
Hai năm sau, ông bị đuổi học cùng với Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn
Khoa Văn (tức
Hải Triều), Phan
Bôi sau
khi tổ chức một cuộc bãi khóa.
Ông về quê và được Nguyễn Chí Diểu giới thiệu tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng, một đảng theo chủ nghĩa dân tộc nhưng có màu sắc cộng sản thành lập năm 1924 ở miền Trung Việt Nam.
Nguyễn Chí Diểu cũng giới thiệu Võ Nguyên Giáp vào làm việc ở Huế, tại nhà xuất
bản Quan hải tùng thư do Đào
Duy Anh sáng
lập và ở báo Tiếng dân của Huỳnh Thúc Kháng.
Tại đây, Võ Nguyên Giáp bắt đầu học nghề làm báo, chuẩn bị cho giai đoạn hoạt
động báo chí trong thời Mặt trận Bình dân Pháp.
Tháng 4/1927 tại
trường Quốc học Huế lại diễn ra một cuộc bãi khóa rầm rộ với quy mô lớn. Nguyễn Chí Diểu bị tên giám thị Pháp
chú ý, coi là kẻ cầm đầu những cuộc đấu tranh bãi khóa ở trường, nên đuổi học.
Võ Nguyên Giáp liền bàn với Nguyễn Khoa Văn tiếp tục tổ chức bãi khóa để phản
đối việc Diểu bị đuổi học. Cuộc bãi khóa của học sinh Trường Quốc học Huế lan
rộng ra khắp các trường ở Huế và phát triển thành cuộc tổng bãi khóa. Võ Nguyên
Giáp bị bắt rồi bị đuổi học, phải trở về quê nhà. Bỗng nhiên một hôm Nguyễn Chí
Diểu lặn lội từ Huế về làng An Xá tìm gặp Võ Nguyên Giáp. Diểu mang theo một tập
tài liệu về “Liên đoàn các dân
tộc bị áp bức trên thế giới” và
một số văn kiện cuộc họp của Việt Nam Thanh niên Cách
mạng Đồng chí Hội ở
Quảng Châu, trong đó có 2 bài phát biểu của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc. Anh Giáp đọc rất xúc động.
Mùa hè năm 1928, Võ
Nguyên Giáp trở lại Huế, bước vào đời của một chiến sĩ cách mạng. Tại Huế,
Nguyễn Chí Diểu giới thiệu anh Giáp đến làm việc ở Quan Hải Tùng thư, một nhà
xuất bản do Tổng bộ Tân Việt chủ trương, trụ sở đặt ở phố Đông Sa. Sáng lập
viên là Đào
Duy Anh. Tại đây Võ Nguyên Giáp có điều kiện tiếp xúc với những
học thuyết kinh tế, xã hội, dân tộc, cách mạng. Đặc biệt là cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp” và
tờ báo “Người cùng khổ” (Le Paria) do Nguyễn
Ái Quốc viết
từ Pháp gửi về.
Đầu tháng 10 năm 1930,
trong sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, Võ
Nguyên Giáp bị bắt và bị giam ở Nhà lao Thừa phủ (Huế), cùng với người
yêu là Nguyễn Thị Quang Thái, em
trai là Võ Thuần Nho và các giáo
sư Đặng Thai Mai, Lê Viết Lượng...
Sau này Liệt sỹ Nguyễn Thị Quang Thái chính là người vợ đầu
tiên của Đại Tướng. Đại tướng có một con với Bà là Võ
Hồng Anh. Chị Thái hẹn, khi con cứng cáp sẽ đi thoát ly hoạt
động. Nhưng cả hai không ngờ lần chia tay năm 1940 cũng là lần vĩnh biệt, chị
Thái bị giặc Pháp bắt giam và chết ngay trong ngục tù. Bà hi sinh khi còn rất
trẻ, nhiều người biết đến bà như một hình tượng người phụ nữ mẫu mực, kiên
trung, yêu nước.
Cuối năm 1931,
nhờ sự can thiệp của Hội Cứu tế Đỏ của Pháp, Võ
Nguyên Giáp được trả tự do nhưng lại bị Công sứ Pháp tại Huế ngăn cấm không cho ở
lại Huế.
Ông ra Hà
Nội, học trường Albert Sarraut và đỗ. Ông nhận bằng
cử nhân luật năm 1937 (Licence en Droit).
Do bận rộn hoạt động cách mạng, vào năm 1938,
ông bỏ dở học chương trình năm thứ tư về Kinh tế Chính trị và không lấy bằng Luật
sư.
Từ 1936 đến 1939, Võ
Nguyên Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, là
sáng lập viên của mặt trận và là Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong
trào Đông Dương đại hội. Ông tham gia thành lập và làm báo tiếng
Pháp Notre
voix (Tiếng
nói của chúng ta), Le Travail (Lao động), biên tập các báo Tin tức, Dân chúng.
Tháng
5 năm 1939, Võ
Nguyên Giáp nhận dạy môn lịch
sử tại Trường
Tư thục Thăng Long, Hà
Nội do Hoàng Minh Giám làm giám đốc nhà trường
Ngày 3
tháng 5 năm 1940, Võ
Nguyên Giáp với bí danh là Dương Hoài Nam cùng Phạm Văn Đồng lên Cao
Bằng rồi
vượt biên sang Trung
Quốc để
gặp Hồ
Chí Minh.
Chỉ sau một thời gian
ngắn, Hồ Chí Minh đã thấy Võ Nguyên Giáp là người triển vọng nên liên hệ với
Đảng cộng sản Trung Quốc và cử anh đi học quân sự tại căn cứ địa Diên
An. Trên đường tới Diên An, anh được Hồ Chí Minh gọi quay
lại vì tình hình thế giới có nhiều thay đổi lớn. Ở châu Âu, phát xít Đức đã xâm
chiếm Pháp. Hồ Chí Minh nhận định tình hình Đông Dương sẽ chuyển biến nhanh,
cần gấp rút trở về nước chuẩn bị đón thời cơ.
Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương trong năm này và bắt
đầu các hoạt động của mình trong Việt
Nam Độc lập Đồng minh Hội, một tổ chức chống phát-xít và đấu tranh cho độc
lập của
Việt Nam. Năm 1941 đúng dịp tết Nguyên đán Tân Tỵ, Võ Nguyên Giáp cùng Hồ Chí
Minh trở về Cao
Bằng. Trong thời gian ở hang Pác Bó, Hồ Chí Minh tiên đoán
cách mạng sẽ thành công vào năm 1945, một dự đoán chuẩn xác.
Ông tham gia xây dựng
cơ sở cách mạng, mở lớp huấn luyện quân
sự cho Việt
Minh ở Cao
Bằng. Ngày 22
tháng 12 năm 1944,
theo hướng dẫn của Hồ
Chí Minh, ông thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải
phóng quân tại
chiến khu Trần Hưng Đạo với 34 người, được
trang bị 2 súng thập (một loại súng
ngắn), 17 súng trường, 14 súng
kíp và 1 súng
máy. Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Ngày 25
tháng 12 năm 1944, Võ
Nguyên Giáp đã chỉ huy đội quân này lập chiến công đầu tiên là tập kích diệt
gọn hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần.
Ngày 14
tháng 8 năm 1945, Võ
Nguyên Giáp trở thành uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương, sau đó là ủy viên Thường vụ Trung ương, tham gia Ủy
ban Khởi nghĩa toàn quốc.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Võ
Nguyên Giáp được cử làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Phó Bộ trưởng (nay
gọi là Thứ trưởng) Bộ Quốc phòng trong Chính
phủ lâm thời (từ
ngày 28
tháng 8 đến
hết năm 1945) và là Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ.
Trong Chính
phủ Liên hiệp, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (cho đến
tháng 7 năm 1947 và từ tháng 7 năm 1948 trở đi). Cũng trong
năm 1946,
ông kết hôn với bà Đặng Bích Hà (con gái giáo sư Đặng Thai Mai).
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chiến tranh Đông Dương chính
thức bùng nổ. Dưới sự lãnh đạo của Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản, ông bắt đầu chỉ đạo cuộc đấu
tranh vũ trang kéo dài 9 năm chống lại sự trở lại của người Pháp (1945-1954)
trên cương vị Tổng chỉ huy và Tổng Chính ủy,
từ năm 1949 đổi
tên gọi là Tổng tư lệnh quân đội kiêm Bí thư Tổng Quân uỷ.
Đại
tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Không được đào tạo tại bất
kỳ trường quân sự nào trước đó, không phải trải qua các cấp bậc quân hàm trong
quân đội, Võ Nguyên Giáp thụ phong quân hàm Đại tướng vào ngày 28
tháng 5 năm 1948 theo
sắc lệnh 110/SL ký ngày 20
tháng 1 năm 1948,
Ông trở thành Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam khi 37 tuổi.
Sau này, trả lời phóng viên nước ngoài về tiêu chí phong tướng, Hồ Chí Minh đã
nói: "Đánh thắng đại tá phong đại tá, đánh thắng thiếu tướng phong thiếu
tướng, thắng trung tướng phong trung tướng, thắng đại tướng phong đại tướng”. Cùng
đợt thụ phong có Nguyễn
Bình được
phong Trung
tướng; Nguyễn
Sơn,
Lê Thiết Hùng,
Chu Văn Tấn, Hoàng
Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê
Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong Thiếu tướng. Tháng
8 năm 1948,
ông là ủy viên Hội đồng Quốc phòng Tối cao vừa
mới được thành lập.
Từ tháng
8 năm 1945 Võ
Nguyên Giáp là một trong 5 ủy viên Ban
Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và trở thành ủy
viên Bộ
Chính trị(thay thế Ban Thường vụ Trung ương) Đảng Lao động Việt
Nam từ năm 1951.
Như các danh tướng Việt Nam
trong lịch sử, Võ Nguyên Giáp chú trọng nghệ thuật lấy ít địch nhiều, lấy yếu
chế mạnh, lấy thô sơ thắng hiện đại. Tư tưởng quân sự nổi tiếng của ông có tên
gọi là Chiến tranh nhân dân kế
thừa quan điểm quân sự Hồ Chí Minh, tinh hoa nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên,
tri thức quân sự thế giới, lý luận quân sự Mác-Lênin và được đúc rút từ kinh
nghiệm cá nhân được liên tục cập nhật trong nhiều cuộc chiến tranh mà nổi bật
là chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.
Trong 9 năm trường kỳ đánh
Pháp, Võ Nguyên Giáp đã có những sáng kiến quan trọng để phát huy sức mạnh quân
sự và đã trở thành những kinh nghiệm quý báu như: "Đại đội độc lập, tiểu
đoàn tập trung". Với chuyên gia quân sự Trung Quốc sang giúp huấn luyện
quân đội, ông chỉ đạo chiến sĩ học tập, tiếp thu, nghiên cứu kỹ phương pháp của
nước bạn, đồng thời nhắc nhở cán bộ, sĩ quan phải ghi nhớ việc tiết kiệm sinh
mạng bộ đội do Việt Nam là nước nhỏ không thể nuôi nhiều quân.
Năm 1954, Võ Nguyên Giáp
được Hồ Chí Minh và Đảng Lao động tin tưởng trao cho toàn quyền chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Trước khi ra trận, Hồ Chí Minh đã dặn dò: "Cho chú toàn quyền chỉ huy.
Trận này chỉ được thắng không được thua vì thua là hết vốn". Ông tự
tin lên kế hoạch và chỉ huy 4 trong 6 sư đoàn bộ binh khi đó của Quân đội Nhân
dân Việt Nam là 308, 304, 312, 316 và Đại đoàn sơn pháo 351 tấn công Điện
Biên Phủ, đánh bại đội quân nhà nghề được trang bị hiện đại của
Liên hiệp Pháp.
Chiến thắng này đã đặt dấu chấm hết cho quyền lực của người Pháp tại Đông Dương
sau 83 năm và đã đưa Võ Nguyên Giáp đi vào lịch sử thế giới như là một danh
nhân quân sự Việt Nam, một người hùng của Thế giới thứ ba,
nơi có những người dân bị nô dịch đã xem Võ Nguyên Giáp là thần tượng để hạ
quyết tâm lật đổ chế độ thực dân xây dựng nền độc lập của riêng mình.
Từ
1954 đến 1964.
Từ năm 1954 đến năm 1956, Võ
Nguyên Giáp chủ trương đấu tranh hòa bình, yêu cầu Việt Nam Cộng hòa thực hiện Hiệp định
Geneve vì một Việt Nam thống nhất, không chia rẽ về tình cảm và chính trị. Tuy
nhiên, Ngô Đình Diệm đã thẳng thừng bác bỏ yêu sách này bằng Phong Trào Tố cộng
Diệt cộng.
Từ năm 1957 đến năm 1958,
Đảng Lao động đã có những cuộc họp bàn về cách mạng Miền Nam nhưng chủ trương,
biện pháp đấu tranh vẫn chưa thay đổi, phong trào cách mạng tiếp tục bị đàn áp
và tổn thất nặng nề.
Tháng 1-1959, khi hy
vọng thi hành Hiệp định Genve không còn, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội
nghị (mở rộng) lần thứ 15, Võ Nguyên Giáp giúp Bộ Chính trị và những người cộng
sản miền nam do Lê Duẩn đứng đầu ban hành Nghị quyết 15 Bộ Chính trị, khẳng
định việc giải phóng miền nam bằng đấu tranh vũ trang, cho phép những cán bộ
kháng chiến còn lại ở miền nam tổ chức hoạt động vũ trang.
Năm 1959,
được Bộ Chính trị đồng ý, Võ Nguyên Giáp đã quyết định thành lập Đoàn 559 mở đường mòn dọc dãy Trường Sơn để tiếp ứng phong
trào cách mạng miền nam Việt Nam. Nhờ việc mở đường Trường Sơn,
phong trào cách mạng và hoạt động du kích miền Nam phát triển rất mạnh. Sau 4
năm, Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam đã
thành lập được một số đơn vị cấp trung
đoàn.
Năm 1964,
được Bộ Chính trị đồng ý, Võ Nguyên Giáp đã bí mật cử Nguyễn Chí Thanh, Lê Trọng Tấn vào
chiến trường Đông Nam Bộ chỉ huy quân giải phóng miền Nam đánh lớn tại Bàu Bàng,Dầu
Tiếng, Đồng Xoài... tạo chuyển biến chiến
trường và thành lập các Sư đoàn 1, 2, 3, 5, 7, 9 nổi tiếng. Trong đó, Sư đoàn 1
trấn thủ Tây
Nguyên, Sư đoàn 2 trấn thủ Quảng
Nam, Quảng
Ngãi, Sư đoàn 3 Sao Vàng trấn thủ Bình Định, trung đoàn 10 trấn thủ Phú
Yên, trung đoàn 20 trấn thủ Khánh
Hòa, Sư đoàn 5 trấn thủ khu vực Sài Gòn - Gia
Định, Sư đoàn 7 cơ động chiến đấu khắpQuân khu 7 gồm Lâm
Đồng, Ninh
Thuận, Đồng
Nai, Tây
Ninh, Bình
Thuận, Bình Phước và
Sư đoàn 9 di chuyển chiến đấu khắp Tây
Ninh và Quân khu 9.
Từ
1965 đến 1972.
Năm 1965,
chia lửa với Nam Bộ, Hoàng Minh Thảo,
người học trò của Võ Nguyên Giáp ở trường Thăng
Long được
cử vào Mặt trận Tây Nguyên làm Phó Tư lệnh rồi Tư
lệnh Mặt trận B3 thayChu
Huy Mân chuyển
sang chỉ huy Mặt
trận duyên hải Nam Trung Bộ đến
khi chiến tranh kết thúc.
Năm 1968, Bộ
Chính trị và Bộ Thống soái Tối cao tại Hà
Nội phát
động cuộc Tổng Tấn công và Nổi dậy Tết Mậu Thân. Dù
thiệt hại về nhân mạng to lớn, nhưng chiến dịch đã gây tiếng vang lớn, đánh bại
Hoa Kỳ về mặt chiến lược và
giành được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân phản đối chiến tranh tại Mỹ và trên toàn thế
giới, buộc Hoa Kỳ phải ngừng ném bom miền Bắc, ngồi vào bàn đàm phán và dần rút
quân khỏi Việt Nam. Đây là bước ngoặt của cuộc chiến tranh nhưng còn quá ít
thông tin xoay quanh Võ Nguyên Giáp vào thời điểm này, chỉ biết ông cũng tham
gia lập kế hoạch, song khi cuộc tổng tiến công diễn ra thì ông đang ở nước
ngoài trị bệnh.
Từ
1972 đến 1975.
Cuốn hồi ức mang tên
"Tổng Hành dinh trong Mùa xuân Đại thắng" do Võ Nguyên Giáp xuất bản
lần đầu năm 2001 đã thuật lại những
hoạt động của ông vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ từ năm 1972 đến
năm 1975.
Năm 1972,
sau đại thắng tại Chiến dịch Đường 9 Nam Lào,
với kho vũ khí khá hùng hậu, Võ Nguyên Giáp chủ trương khuếch trương chiến quả
bằng một kế hoạch quân sự ở Tây Nguyên, nơi có khả năng triển khai lực lượng
lớn, đánh lớn, gây những khó khăn lớn hơn cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Kế
hoạch này đã bị nhà lãnh đạo Lê
Duẩn và
Quân ủy trung ương bác bỏ do Tổng Cục tình báo 2 nhận được thông tin là Mỹ và
Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã sớm biết và đã đón lõng tại Tây Nguyên. Đồng thời
do ở gần nên mặt trận Trị-Thiên cũng dễ bổ sung đạn dược, quân số hơn, lại có 2
mục tiêu cực kỳ quan trọng là Huế và Đà Nẵng.
Một phương án mới
được đưa ra. Quân Giải phóng sẽ chia quân mở 3 chiến dịch tại Trị-Thiên, Tây
Nguyên và Đông Nam Bộ. Sau 2 tháng, trước những thắng lợi lớn trong Chiến dịch Trị Thiênvà
quân Giải phóng đã áp sát Huế, các lực lượng bổ sung được tiếp tục đưa vào đây,
còn mặt trận Tây Nguyên thì buộc phải ngừng tiến công do hết dự trữ. Đại tướng
Võ Nguyên Giáp đề xuất vòng qua phía tây Huế, chia lực lượng và hỏa lực đánh
vào Vùng Chiến thuật I. Tuy nhiên các đơn vị công binh mở đường do thiếu phương
tiện nên thực hiện quá chậm, không kịp phục vụ mục tiêu chiến dịch (con đường
này sau đó đã phát huy tác dụng vào chiến dịch mùa xuân năm 1975), 6
sư đoàn tham gia chiến dịch Trị Thiên gồm 312, 308, 324, 325, 320, 341 đã hành
quân đánh trực diện từ phía bắc xuống Vùng Chiến thuật I,
nơi có Quân đoàn I và lực lượng tổng trù
bị của Quân lực Việt Nam Cộng hòa gồm các Lữ đoàn Biệt động quân, Sư đoàn Dù số 1 và Sư
đoàn Thủy quân Lục chiến số 1, được không quân và Hải
quân Mỹ chi viện tối đa.
Trên địa hình nhỏ hẹp
dài, bên núi, bên biển dẫn đến Vùng Chiến thuật 1, 6 sư đoàn tiến công trong
tình cảnh liên tục bị bom rải thảm B-52, pháo kích từ chiến hạm Mỹ, pháo kích
từ Vùng Chiến thuật 1. Quân Giải phóng bị chặn lại, chỉ chiếm được nửa phía Bắc
tỉnh Quảng Trị. Theo thông tin gần đây cho biết, trong suốt 9 tháng chiến dịch, Sư đoàn 308 thương vong 70% quân
số;Sư đoàn 312 đã bổ sung quân 13
đợt, mỗi đợt 500 người; Sư đoàn 320 thương vong 80% quân
số. Các sư đoàn còn lại tham chiến đều mất ít nhất nửa số quân. Tổng thương
vong lên tới hơn 30 ngàn người (trong đó gần 14.000 hy sinh). Chiến dịch cũng
khiến Hà Nội tiêu tốn hơn 300.000 viên đạn
pháo, gần 4/5 lượng đạn pháo trong kho, dẫn đến tình trạng
thiếu đạn, chỉ còn 100.000 viên cuối năm 1974.
Cuối năm 1972, Võ
Nguyên Giáp đã bố trí lực lượng đánh trả cuộc tập kích đường không của Không lực Mỹ suốt 12 ngày đêm.
Thất bại trong chiến dịch này buộc Mỹ phải chấp nhận ký Hiệp định Paris với
những điều khoản nhân nhượng mà chính họ trước đó đã từ chối.
Năm 1974, để nắm vững
tình hình thực tế chiến trường và có quyết sách đúng đắn, Đại tướng cùng Tư
lệnh trưởng Đoàn 559 Đồng Sĩ Nguyên và chính ủy Đặng Tính đã
vượt hàng trăm cây số đi thăm bộ đội Trường Sơn trên đường mòn Hồ Chí Minh và kiểm tra sự chuẩn
bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy dự kiến vào mùa Xuân 1975.
Năm 1975, Võ
Nguyên Giáp đã tán thành đề xuất của Trung tướng Hoàng Minh Thảo chọn địa bàn Nam Tây
Nguyên làm hướng tấn công chiến lược, xin ý kiến Bộ Chính trị và cử Đại tướngVăn Tiến Dũng vào Nam chỉ đạo đánh
đòn "điểm huyệt" vào hệ thống phòng ngự của Việt Nam Cộng hòa tại Buôn Mê Thuột.
Chính ông nhân đà thắng trận Buôn Ma Thuột, trực tiếp ra lệnh Trung tướng Lê Trọng Tấn gấp
rút giải phóng Đà Nẵng trong 3 ngày. Chính ông đề xuất và ra quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh mà trong đó Văn Tiến
Dũng làm Tư lệnh, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Trần Văn Trà làm
Phó Tư lệnh, chỉ huy 5 cánh quân với sức mạnh của 20 sư đoàn đồng loạt tiến vào
giải phóng Sài Gòn. Mệnh lệnh nổi tiếng
nhất của ông chỉ đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh là "Thần tốc, thần tốc hơn nữa,
táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải
phóng miền Nam, quyết chiến và toàn thắng".
0 nhận xét:
Post a Comment