Cách mạng Tháng Tám
thắng lợi đã mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam, kỉ nguyên của độc
lập, tự do hạnh phúc. Thế nhưng, để có được ngày tháng đó, dân tộc ta đã phải
hi sinh biết bao xương máu, nước mắt.
Nhân dịp kỉ niệm 68 năm thắng lợi Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh
2-9, Lửa truyền thống xin được gửi tới các bạn bài viết khắc họa lại những
giờ phút lịch sử này.
|
Nhật đầu hàng Đồng minh, thời cơ tổng khởi
nghĩa Từ cuối tháng 4 đầu tháng 5-1945, từng tháng, từng ngày, lịch sử
chứng kiến sự diệt vong của chủ nghĩa phát xít, sự thắng lợi của loài người
tiến bộ và các lực lượng dân chủ chống phát xít.
Từ cuối tháng 4 đầu
tháng 5-1945, từng tháng, từng ngày, lịch sử chứng kiến sự diệt vong của chủ
nghĩa phát xít, sự thắng lợi của loài người tiến bộ và các lực lượng dân chủ
chống phát xít.
Ngày 9-8-1945, sau khi
chiến thắng hoàn toàn quân Đức, Hồng quân Liên Xô bắt đầu tiến công quân
Nhật. Trong vòng không đầy một tuần lễ, quân đội Liên Xô đánh tan gần một
triệu quân Nhật tại Mãn Châu (Trung Quốc), buộc Nhật đầu hàng Liên Xô và Đồng
minh không điều kiện. Chiến tranh Thái Bình Dương, Chiến tranh thế giới lần
thứ hai chấm dứt.
Việc gần một triệu
quân Quan Đông thiện chiến nhất của Nhật bị tiêu diệt đã tác động mạnh đến
tinh thần quân Nhật ở Đông Dương. Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim cùng với
các hạng tay sai khác của Nhật đều hoang mang tan rã.
Điều kiện khách quan
cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền đã hoàn toàn chín muồi,
"thời cơ ngàn năm có một" đã đến, trong lúc điều kiện chủ quan của
ta hết sức thuận lợi.
Ngày 13-8-1945 Ủy ban
khởi nghĩa toàn quốc được thành lập, liền ra "Quân lệnh số 1" hạ
lệnh tổng khởi nghĩa.
Từ ngày 13 đến ngày
15-8-1945, tại Tân Trào diễn ra Hội nghị toàn quốc của Đảng. Hội nghị nhận
định: "Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi... Quân lính
Nhật tan rã, mất tinh thần, hàng ngũ chỉ huy Nhật ở Đông Dương chia rẽ đến
cực điểm, bọn Việt gian thân Nhật hoảng sợ. Toàn dân tộc đang sôi nổi đợi giờ
khởi nghĩa giành chính quyền độc lập. Từ nhận định đó, Hội nghị đi đến quyết
định phát động toàn dân nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân
Anh, quân Tưởng Giới Thạch vào Đông Dương tước khí giới quân Nhật và thực dân
Pháp chưa kịp tập hợp lực lượng, điều quân vào xâm lược nước ta lần nữa. Hội
nghị 496 còn quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối
ngoại trong thời kỳ đầu sau khi giành được chính quyền.
Hội nghị toàn quốc của
Đảng bế mạc thì Đại hội quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ngay ở
Tân Trào (Tuyên Quang) trong hai ngày 16 và 17-8-1945. Tham dự Đại hội có hơn
60 đại biểu của các giới, các đảng phái chính trị, các đoàn thể quần chúng,
các dân tộc, các tôn giáo trong nước và đại biểu kiều bào ở nước ngoài. Đại
hội tán thành hoàn toàn chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, nhất trí thông
qua 10 chính sách của Việt Minh, coi đó là chính sách cơ bản của cách mạng,
cử ra ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đại hội còn
quyết định lấy lá cờ đỏ sao vàng làm Quốc kỳ, lấy bài Tiến quân ca làm Quốc
ca.
Đại hội quốc dân vừa
bế mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên khởi
nghĩa giành chính quyền:
Giờ quyết định cho vận
mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta... chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ
Việt Minh đồng bào hãy dũng cảm tiến lên?.
Tổng khởi nghĩa tháng Tám, nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà ra đời
Hưởng ứng lệnh tổng
khởi nghĩa của Đảng, lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào cả nước,
triệu người như một, nhất tề đứng lên với tinh thần "Dù hi sinh tới đâu,
dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc
lập".
Chiều 16-8-1945, theo
lệnh của Uỷ ban khởi nghĩa, một đơn vị quân giải phóng do Võ Nguyên Giáp chỉ
huy, xuất phát từ Tân Trào, nơi Đại hội quốc dân đang họp, tiến về thị xã
Thái Nguyên, mở đầu cuộc tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong cả
nước.
Ở nhiều tỉnh xa, lệnh
tổng khởi nghĩa của Trung ương đến chậm, nhưng nhờ thấm nhuần các chỉ thị,
nghị quyết của Đảng trước đó, nhất là tinh thần chỉ thị "Nhật-Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta", đồng thời căn cứ vào tình hình thực tế
ở địa phương, khi được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, lãnh đạo Đảng, Mặt trận
dã kịp thời, chủ động phát động quần chúng nổi dậy.
Từ ngày 14 đến ngày
18-8-1945, Ở hầu hết các tỉnh miền Bắc, quần chúng cách mạng đã nổi dậy giành
chính quyền ở cấp xã và cấp huyện, rồi tiến lên giành chính quyền ở tỉnh.
Ngày 18-8-1945, nhân
dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh,Quảng Nam giành được chính quyền ở tỉnh lỵ
sớm nhất trong cả nước.
Ngày 19-8-1945, cả Hà
Nội đỏ rực màu cờ. Hàng chục vạn quần chúng cách mạng ở nội và ngoại thành
mang theo gậy dao, súng, mã tấu... tiến về quảng trường Nhà hát thành phố dự
cuộc mít tinh do Việt Minh tổ chức. Cuộc mít tinh bắt đầu lúc 11 giờ. Sau
loạt súng chào cờ và bài Tiến quân ca vang lên, đại biểu Uỷ ban quân sự cách
mạng đọc lời hiệu triệu khởi nghĩa của Việt Minh. Cuộc mít tinh phát triển
nhanh chóng chuyển thành cuộc biểu tình tuần hành vũ trang. Quần chúng biểu
tình chia thành nhiều đoàn, có các đơn vị tự vệ chiến đấu, tiến về các ngả
đường, chiếm các cơ quan của chính quyền bù nhìn: Phủ Khâm sai, Toà Thị
chính, Sở cảnh sát, Trại bảo an binh... Trước khí thế sục sôi của quần chúng
khởi nghĩa, Nhật dù có hơn một vạn quân cũng không thể làm gì được. Binh lính
và cảnh sát ngụy cũng bất lực và cuối cùng ngả theo cách mạng. Chính quyền
hoàn toàn về tay nhân dân.
Thắng lợi của cuộc
khởi nghĩa ở Hà Nội (ngày 19 tháng 8) đã có tiếng vang nhanh trong cả nước,
có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ các tỉnh và các thành phố khác, làm tăng thêm cuộc
khủng hoảng trong hàng ngũ kẻ thù, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc tổng khởi
nghĩa.
Ở Huế, ngày 23-8-1945,
quần chúng các huyện ngoại thành đã giành được chính quyền cùng phối hợp với
công nhân, thanh niên, sinh viên, học sinh và các tầng lớp lao động khác
trong nội thành, tiến hành cuộc biểu dương lực lượng. Bộ máy chính quyền bù
nhìn hoàn toàn tê liệt. Quân đội Nhật nằm im. Quần chúng khởi nghĩa lần lượt
chiếm các công sở của địch mà không có sự kháng cự nào đáng kể.
Được tin cách mạng
thắng lợi ở Hà Nội, Đảng bộ miền Nam và Sài Gòn quyết định phát động quần
chúng khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn và các tỉnh. Đêm 24-8-1945, từng
đoàn quân khởi nghĩa của công nhân, nông dân,thanh niên, sinh viên, học sinh
và các tầng lớp lao động khác, trong tay gậy tầm vông vót nhọn và giáo mác,
từ các tỉnh xung quanh rầm rập kéo về Sài Gòn. Sáng 25-8-1945, hơn một triệu
người biểu tình tuần hành thị uy. Quân khởi nghĩa lần lượt chiếm các công sở
quan trọng của địch. Quân đội Nhật "án binh bất động". Cuộc khởi
nghĩa giành được thắng nhanh chóng.
Thắng lợi của cuộc
khởi nghĩa Sài Gòn có ý nghĩa quyết định đến cuộc khởi nghĩa của các tỉnh còn
lại ở miền Nam.
Trừ mất thị xã do
Tưởng Giới Thạch và tay sai chiếm đóng từ trước (Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai,
Lai Châu, Vĩnh Yên), cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi trên cả nước trong
vòng nửa tháng, từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945.
Ngày 25-8-1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Uỷ ban dân tộc giải phóng từ Tân
Trào về đến Hà Nội. Theo đề nghị của Người, Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt
Nam do Đại hội quốc dân Tân Trào cử ra được cải tổ thành chính phủ lâm thời
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.Chính phủ lâm thời thể hiện chính sách đại
đoàn kết của Đảng, đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu
nước, các nhân sĩ tiến bộ.
Ngày 28-8-1945, một
phái đoàn của Chính phủ lâm thời từ Hà Nội vào Huế dự lễ thoái vị của vua Bảo
Đại. Chiều 30 tháng 8,ở Ngọ Môn, dưới rừng cờ đỏ sao vàng, diễn ra cuộc mít
tinh của hàng vạn nhân dân cố đô Huế, chứng kiến Bảo Đại - ông vua cuối cùng
của chế độ phong kiến Việt Nam, đọc lời thoái vị và trao ấn, kiếm cho cách
mạng. Đại diện Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên bố xoá bỏ
chế độ quân chủ ở Việt Nam.
Ngày 2-9-1945, tại
Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh lớn của hàng chục vạn nhân
dân đủ các tầng lớp ở thủ đô và các vùng lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay
mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với toàn
thể quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời.
Bản Tuyên ngôn Độc lập
khẳng định quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của nhân dân Việt Nam được
hưởng tự do độc lập mà tự mình giành lại từ tay Nhật: "Một dân tộc đã
gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng
về phía Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân
tộc đó phải được độc lập?... Và sự thật đã thành một nước tự do độc
lập".
Bản Tuyên ngôn đồng
thời khẳng định ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi của nhân dân Việt Nam
quyết giữ vững quyền thiêng liêng ấy: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do, độc lập ấy".
Tuyên ngôn Độc lập là
văn kiện lịch sử trọng đại, và ngày 2-9-1945 mãi mãi ghi vào lịch sử Việt Nam
là ngày hội lớn của dân tộc Việt Nam - ngày tuyên bố thành lập nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà.
|
|
0 nhận xét:
Post a Comment